Herpes zoster là gì? Các công bố khoa học về Herpes zoster

Herpes zoster, hay còn được gọi là zona, là một bệnh nhiễm trùng da và dây thần kinh gây ra bởi virus Varicella-Zoster. Đây là cùng một loại virus gây ra bệnh t...

Herpes zoster, hay còn được gọi là zona, là một bệnh nhiễm trùng da và dây thần kinh gây ra bởi virus Varicella-Zoster. Đây là cùng một loại virus gây ra bệnh thủy đậu (chickenpox). Sau khi mắc bệnh thủy đậu, virus có thể ẩn náu trong hệ thần kinh trong nhiều năm và sau đó tái phát dưới dạng herpes zoster.

Herpes zoster thường gây ra cơn đau rất mạnh và gây viêm da dọc theo một hay nhiều dây thần kinh. Các triệu chứng thường bao gồm cảm giác đau cháy, nổi mẩn da đỏ và mụn nước. Bệnh thường xuất hiện theo dạng vết phân tán hình dải, theo đường dọc dọc theo lưng, ngực hoặc khuôn mặt.

Herpes zoster có thể gây ra khó chịu và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Điều trị dùng các loại thuốc kháng virus có thể giúp giảm thiểu triệu chứng và giảm nguy cơ biến chứng sau bệnh.
Herpes zoster là một loại nhiễm trùng dây thần kinh gây ra bởi virus Varicella-Zoster. Đây là cùng một virus gây ra bệnh thủy đậu (chickenpox). Khi mắc bệnh thủy đậu, virus Varicella-Zoster sẽ lây nhiễm vào cơ thể và di chuyển đến các dây thần kinh, trong đó có một số dây thần kinh cột sống chính. Sau khi mắc bệnh thủy đậu, virus này thường ẩn náu trong gan hoặc các chuỗi ganglia thần kinh trong thời gian dài.

Herpes zoster xuất hiện khi virus Varicella-Zoster tái phát sau nhiều năm ẩn náu trong cơ thể. Nguyên nhân chính dẫn đến sự tái phát của virus không được hiểu rõ, nhưng các yếu tố gây căng thẳng, suy giảm miễn dịch, tuổi tác cao và căng thẳng tinh thần có thể góp phần vào việc kích hoạt virus.

Triệu chứng chính của herpes zoster bao gồm:

1. Đau: Cơn đau thường bắt đầu trước khi xuất hiện các biểu hiện da và có thể kéo dài từ vài ngày đến vài tuần. Đau thường được mô tả là cực kỳ đau nhức, cháy rát hoặc như châm chích. Nó thường xuất hiện dọc dọc theo dây thần kinh tương ứng, nghĩa là theo từng đoạn của cơ thể.

2. Nổi mẩn da: Một hoặc nhiều vùng da đỏ hoặc phồng lên xuất hiện trên các dây thần kinh tương ứng với các vùng đau. Nổi mẩn ban đầu có thể xuất hiện như các mụn nước hoặc mụn nước trắng và sau đó có thể chuyển thành vải thiều và sau đó thành vết sẹo.

3. Ngứa: Các vùng nổi mẩn có thể gây ngứa mạnh, đôi khi gây khó chịu và mất ngủ.

4. Phù nề: Có thể xuất hiện phù nề trong các vùng bị nhiễm nếu viêm lan rộng.

5. Mệt mỏi, sốt và rối loạn dạ dày: Một số người bị herpes zoster có thể cảm thấy mệt mỏi, sốt nhẹ và có các triệu chứng rối loạn dạ dày như buồn nôn hoặc tiêu chảy.

Việc điều trị herpes zoster thường bao gồm sử dụng thuốc kháng virus, như acyclovir, valacyclovir hoặc famciclovir. Sử dụng thuốc kháng vi rút trong 72 giờ sau khi xuất hiện nổi mẩn có thể giúp giảm tình trạng và thời gian trị liệu. Các thuốc như gabapentin hoặc đèn hồng ngoại cũng có thể được sử dụng để giảm đau.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "herpes zoster":

A Vaccine to Prevent Herpes Zoster and Postherpetic Neuralgia in Older Adults
New England Journal of Medicine - Tập 352 Số 22 - Trang 2271-2284 - 2005
High Incidence of Herpes Zoster in Patients with AIDS Soon After Therapy with Protease Inhibitors
Clinical Infectious Diseases - Tập 27 Số 6 - Trang 1510-1513 - 1998
Prognostic value of Hutchinson's sign in acute herpes zoster ophthalmicus
Springer Science and Business Media LLC - Tập 241 Số 3 - Trang 187-191 - 2003
A systematic literature review of herpes zoster incidence worldwide
Human Vaccines and Immunotherapeutics - Tập 17 Số 6 - Trang 1714-1732 - 2021
Herpes simplex and varicella zoster CNS infections: clinical presentations, treatments and outcomes
Springer Science and Business Media LLC - Tập 44 - Trang 337-345 - 2015
To describe the clinical manifestations, cerebrospinal fluid (CSF) characteristics, imaging studies and prognostic factors of adverse clinical outcomes (ACO) among adults with herpes simplex virus (HSV) or varicella zoster virus (VZV) CNS infections. Retrospective review of adult patients with positive HSV or VZV polymerase chain reaction on CSF from an observational study of meningitis or encephalitis in Houston, TX (2004–2014), and New Orleans, LA (1999–2008). Ninety-eight adults patients were identified; 25 had encephalitis [20 (20.4 %) HSV, 5 (5.1 %) VZV], and 73 had meningitis [60 (61.1 %) HSV and 13 (13.3 %) VZV]. HSV and VZV had similar presentations except for nausea (P < 0.01) and rash (P < 0.001). The CSF profile did not differ between HSV and VZV infection. Abnormal neuroimaging findings were found in 11.6 % (10/86) brain CTs and 21.3 % (16/75) brain MRIs. The EEG was abnormal in 57.9 % (11/19). Sixteen patients (16.3 %) had an ACO (10 HSV encephalitis, 3 VZV encephalitis and 3 VZV meningitis). Intravenous acyclovir administered within 48 h was protective against an ACO [OR 0.19 (0.04–0.80), P = 0.02). However, on logistic regression only Charlson comorbidity score >1 and an encephalitis presentation were independently associated with an ACO. The treatment for HSV meningitis was variable, and all patients had a good clinical outcome. Alpha herpes CNS infections due to HSV and VZV infections have similar clinical and laboratory manifestations. ACO was observed more frequently in those patients with comorbidities and an encephalitis presentation.
Tổng số: 857   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10